Thông Tin Berlin

Xin đừng quên! NỬA THẾ KỶ TRƯỚC...
Có thể bạn đọc sẽ trách
tôi: trong dịp đầu năm mà nhắc đến chuyện
quá buồn. Xin các bạn lượng thứ cho! Nhưng
chuyện này không thể không nói đến! Nó cũng khủng
khiếp không kém gì chuyện Tết Mậu Thân (1968). Vậy
mà chuyện Tết Mậu Thân chúng ta vẫn phải
đành lòng nhắc đến trong dịp Tết cơ mà!
Cần phải nhắc đến các tấn bi kịch, các
thảm hoạ dân tộc đã qua và hiện đang còn
đang tiếp diễn dưới nền chuyên chính của
Ðảng cộng sản Việt Nam (ÐCSVN), để mọi
người yêu nước thương dân thắp một
nén hương cho vong linh biết bao người vô tội
đã ngã xuống, để tưởng nhớ đến
bao nhiêu người oan ức đã chịu những cực
hình man rợ phải ngậm hờn mãi mãi, để nhớ
lại biết bao bạo hành của một đảng
độc tài đã gây ra trong quá khứ và trong hiện tại,
để mọi người hun đúc ý chí đấu
tranh cho công cuộc dân chủ hoá đất nước. Âu
cũng là việc cần lắm thay! Hơn nữa, ngày nay
tập đoàn cầm quyền đang cố xuyên tạc lịch
sử, cố làm mọi cách để dân tộc ta quên
đi các tội ác tày trời của họ, nhất là
để các thế hệ mới lớn lên không hề hay
biết gì đến các tội ác đó và những kẻ tội
phạm chính danh!
Chuyện tôi muốn nói đến hôm nay là cuộc CẢI
CÁCH RUỘNG ÐẤT (CCRÐ) đầy kinh hoàng ở miền
Bắc Việt Nam, thảm hoạ khủng khiếp
chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Cuộc
CCRÐ đã thực tế bắt đầu diễn ra từ
năm 1953, đúng 50 năm trước đây, và kết
thúc năm 1956. Nhưng dư âm và hậu hoạ của nó vẫn
còn mãi cho đến tận ngày nay. Hồi đó, CCRÐ chẳng
khác nào một trận bão táp ác liệt đổ ập xuống
miền Bắc Việt Nam gây ra biết bao tàn phá khủng
khiếp, biết bao đảo lộn kinh người, biết
bao tang tóc, đau thương cho người dân
lương thiện.
Xuất phát từ đâu mà trận bão táp ghê rợn đó
đã tràn đến cái xứ sở đau thương
này? Số là trong chuyến đi bí mật của ông Hồ
Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc (hồi cuối
năm 1950) đến Moskva (đầu năm 1951), ông
đã gặp Stalin và Mao Trạch Ðông (lúc đó đang có mặt
tại Moskva). Hai ông này đã nhận xét là Ðảng Việt
Nam coi nhẹ nhiệm vụ phản phong (ý nói hữu
khuynh), và chỉ thị phải tiến hành cách mạng phản
phong để "bồi dưỡng động lực
cách mạng là nông dân lao động", nói cụ thể là
phải làm CCRÐ ở các vùng gọi là "giải phóng". Sau
khi về nước, ông Hồ đã cùng Thường vụ
Trung ương (Bộ chính trị sau này) ÐCS trong hai năm
trời bí mật và tích cực chuẩn bị tiến hành
CCRÐ. Chuẩn bị cả về mặt tư tưởng,
cả về mặt chính sách, đường lối, lẫn
về mặt tổ chức. Theo sự phân công của
Stalin, Trung Quốc sẽ giúp đỡ cho Việt Nam, nên
ông Hồ đã mời các đoàn cố vấn Trung Quốc
đến miền Bắc Việt Nam - tổng cố vấn
là La Quý Ba đồng thời là đại sứ Bắc
Kinh tại Việt Nam dân chủ cộng hoà (VNDCCH). Vi Quốc
Thanh đứng đầu đoàn cố vấn quân sự,
còn đứng đầu đoàn cố vấn CCRÐ là Kiều
Hiểu Quang, vốn là phó bí thư tỉnh uỷ Quảng
Tây. Ðó là chưa kể đủ loại cố vấn khác,
như cố vấn chỉnh huấn, cố vấn công an,
cố vấn tổ chức, cố vấn tuyên truyền...
Ðểø chuẩn bị về mặt tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên và quân đội, năm 1952, Bộ
chính trị (BCT)ï Trung ương (TW) Ðảng thực hiện
"cuộc chỉnh huấn" trong Ðảng và "cuộc chỉnh
quân" trong quân đội, theo đúng mẫu mã "cuộc
chỉnh phong" của ÐCS Trung Quốc, chỉ có cái
tên hơi khác một chút mà thôi. Chuẩn bị về mặt
tổ chức, BCT TW đã thành lập Uỷ ban CCRÐ
Trung ương (UBCCRÐTW), gồm có Trường Chinh, Tổng
bí thư ÐLÐVN làm chủ nhiệm, hai phó chủ nhiệm là
Hoàng Quốc Việt, uỷ viên BCT và Lê Văn Lương,
uỷ viên BCT, còn uỷ viên thường trực là Hồ
Viết Thắng, uỷ viên TW Ðảng. Dưới UBCCRÐTW
là các đoàn CCRÐ, dưới các đoàn là các đội
CCRÐ. Cả một đạo quân hùng hậu để làm "chiến
dịch" đánh phong kiến!
ÐCS coi CCRÐ là " một cuộc cách mạng long trời lở
đất", cho nên cần phải "phóng tay phát động
quần chúng" để thực hiện, có nghĩa là phải
làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng,
không thương xót, cho dù có những hành động quá trớn,
quá tả cũng không đáng sợ. Nhiều lãnh tụ cộng
sản thường nh?n m?nh ÐCS là đảng cách mạng
thì nhất định phải làm CCRÐ theo tinh thần "cách
mạng", "cách mạng long trời lở đất"! Họ
cao ngạo phê phán các cuộc CCRÐ hoà bình ở nhiều
nước là cải lương chủ nghĩa, tư sản
và phản cách mạng: vì tại các nước đó, chính
quyền hạn định mức ruộng đất tối
đa cho điền chủ được có, còn phần
thừa thì nhà nước mua lại để chia cho
người ít hay không có ruộng đất. Còn khi giải
thích cho cán bộ mấy chữ "phóng tay phát động quần
chúng" khó hiểu này, ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ hiểu
sau: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn
quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì
nó mới thẳng được. Hình như ông cũng
khoái cái lối giải thích hóm hỉnh ấy, không nghĩ rằng
cái tinh thần "quá đi một tí" sau này chính là mối hoạ
lớn cho dân! Các đội, các đoàn CCRÐ được
tung về nông thôn. Họ tung hoành gần như với quyền
hạn không hạn chế, họ cảm thấy mình nắm
trong tay quyền sinh quyền sát. Cấp trên đã "phóng tay"
cho họ và họ cũng tự "phóng tay"... Vì thếù, trong
dân gian thường nói "nhất đội, nhì Trời", và
các "anh đội" cũng khoái tai khi nghe như thế! Tôi
còn nhớ một lần, thiếu tướng Vương
Thừa Vũ, chủ tịch uỷ ban quân quản thành phố
Hà Nội, về quê thăm nhà ở làng Tó (Thanh Oai) thuộc
ngoại thành Hà Nội. Ông bị đội CCRÐ bắt giữ
cùng với anh cần vụ (lính hầu) và xe ô tô, van xin gì cũng
không được thả ra. Về sau do một sự
tình cờ, chính quyền Hà Nội biết được mới
cho người đến nhận ông về. Ðại thần
của chế độ mà còn bị như thế huống
hồ dân đen!
Trong năm 1952, BCT TW Ðảng lao động Việt Nam
(ÐLÐVN), tức là ÐCS khoác tên mới từ năm 1951, cho làm
thí điểm CCRÐ ở sáu xã thuộc huyện Ðại Từ
tỉnh Thái Nguyên. Trong lần thí điểm này có một sự
kiện "động trời": toà án CCRÐ xử tử
hình bà Nguyễn Thị Năm, tức là Cát Thành Long, người
mà thời trước cách mạng đã từng che giấu,
nuôi ăn, giúp đỡ các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc
Việt, Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng, Lê Thanh
Nghị, Lê Giản... Còn trong Tuần lễ Vàng, gia đình
bà đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới. Bà
đã hoạt động trong Hội Phụ nữ, lại
có con trai đi bộ độïi làm trung đoàn trưởng.
Thế mà bà đã bị quy là địa chủ cường
hào ác bá, bị đoàn CCRÐ xử án tử hình, UBCCRÐ TW
duyệt y và BCT TW ÐLÐVN cũng chuẩn y! Những người
lãnh đạo cộng sản trong BCT và đứng đầu
chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi
ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước,
Tổng bí thư, uỷ viên BCT, Thủ tướng, phó thủ
tướng đã lạnh lùng chuẩn y một cái án tử
hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRÐ nổ
vào đầu một người phụ nữ yêu nước
đã từng giúp đỡ cho những người cộng
sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều
về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo hiệu trước
những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!
Năm 1953, thực tế là
năm bắt đầu tiến hành CCRÐ, năm ÐCS chuẩn
bị toàn bộ đường lối, chính sách và "luật
pháp hoá" các chính sách của Ðảng bằng quyết nghị
của Quốc hội, sắc lệnh và nghị định
của Chính phủ, thông tư của các bộ. Dựa trên
tài liệu chính thức của ÐCS, tôi xin ghi lại những
cái mốc lịch sử đau thương của dân tộc
ta trong cuộc CCRÐ đẵm máu và nước mắt này:
- cuối tháng 01.1953 - hội nghị lần thứ
tư của TW ÐLÐVN để thông qua bản Dự thảo
cương lĩnh Ðảng về chính sách ruộng đất.
Tại hội nghị, ông Hồ đọc báo cáo đề
ra nhiệm vụ triệt để giảm tô, tiến tới
CCRÐ.
- đầu tháng 03.1953 - Hội đồng Chính phủ họp
thảo luận báo cáo của Phó thủ tướng Phạm
Văn Ðồng về mục đích, phương châm, kế
hoạch phát động quần chúng. Hội đồng
Chính phủ đã thông qua các văn bản về chính sách ruộng
đất và phát động quần chúng, tức là đã
"luật pháp hoá" nghị quyết của TW Ðảng.
- 01 - 05.03.1953 - báo Nhân Dân
đăng tải bài "Chỉnh đốn chi bộ" của
uỷ viên Bộ chính trị ÐLÐVN, trưởng ban tổ chức
TW Lê Văn Lương, người trực tiếp phụ
trách cuộc Chỉnh đốn tổ chức trong CCRÐ, và
ngày 16.03.1953 - Chính phủ VNDCCH ra thông tư về việc
chỉnh đốn chính quyền cấp xã qua việc phát
động quần chúng. Ðây là những hướng dẫn
cho việc gắn liền cuộc Chỉnh đốn tổ
chức với CCRÐ, với tinh thần "không dựa vào (thực
tế là đánh vào - Người viết) tổ chức cũ
mà lập nên tổ chức mới" ở nông thôn!
- 12.04.1953 - Chính phủ VNDCCH ra
ba sắc lệnh: 1/ sắc lệnh quy định chính sách
ruộng đất, trong đó có việc tịch thu,
trưng thu, trưng mua ruộng đất chia cho nông dân; 2/
sắc lệnh quy định việc thành lập Toà án nhân
dân ở những nơi phát động quần chúng; 3/ sắc
lệnh quy định việc trừng trị những
địa chủ ở những nơi phát động quần
chúng tiến hành CCRÐ.
- 01.06.1953 - báo Nhân Dân
đăng bài về Chương trình CCRÐ.
- tháng 06.1953 - ÐLÐVN tổ chức
cái gọi là "đợt chỉnh huấn chính trị" để
nâng cao lập trường giai cấp cho cán bộ đảng
viên trong cuộc đấu tranh CCRÐ.
- 14.11.1953 - hội nghị lần
thứ năm TW và Hội nghị toàn quốc của ÐLÐVN
để quyết định tiến hành CCRÐ. Ông Hồ
đã phát biểu ý kiến tại hội nghị nhấn
mạnh phải "phóng tay phát động quần chúng tiến
hành CCRÐ".
- 01-04.12.1953 - kỳ họp thứ
ba của Quốc hội khoá 1, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc báo cáo "Tình hình trước mắt và nhiệm
vụ CCRÐ" và ngày 04.12.1953 - Quốc hội nhất trí thông
qua Luật CCRÐ. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ra sắc lệnh ban hành Luật CCRÐ do Quốc hội
thông qua.
Từ đó, bắt đầu
các đợt CCRÐ, mà đợt đầu tiến hành
ở 47 xã tỉnh Thái Nguyên và 6 xã tỉnh Thanh Hoá, sau đó
lan tràn trên khắp miền Bắc, trừ các vùng miền
núi. Ðợt năm là đợt cuối cùng, phần lớn
diễn ra ở các xã đồng bằng Bắc bộ và
các vùng bị Pháp chiếm trước đây. May mắn cho
đồng bào miền núi, vì ÐLÐVN chủ trương sau khi
hoàn thành CCRÐ ở vùng đồng bằng mới làm ở
miền núi. Do sự phẫn nộ của quầân chúng
đã bùng lên dữ dội, nhiều cuộc nổi dậy
của nông dân đã nổ ra ở Quỳnh Lưu, Phát Diệm,
nên về sau, TW ÐLÐVN chỉ tiến hành cái gọi là "cải
cách dân chủ" ở miền núi, nghĩa là dẹp bỏ
phong kiến địa phương (tức là các phìa tạo)
mà không dùng bạo lực quá mạnh vì sợ dân chúng chạy
sang Trung Quốc, Lào... Còn ở huyện Vĩnh Linh tỉnh
Quảng Trị, vì nằm sát giới tuyến, tiếp giáp
Việt Nam Cộng hoà, nên cũng được chiếu cố,
nghĩa là dùng bạo lực vừa phải "để
không gây ảnh hưởng xấu đến miền Nam".
- tháng 09.1956 - hội nghị lần
thứ 10 của TW ÐLÐVN kiểm điểm tình hình CCRÐ. Do ảnh
hưởng của đại hội lần thứ 20 ÐCS
Liên Xô vạch trần những tội ác của Stalin, do sự
bất mãn trong dân chúng, cộng thêm sự phản ứng
khá mạnh của cán bộ, TW Ðảng buộc phải thừa
nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRÐ và chủ
trương sửa sai. Tại hội nghị, TW đã thi
hành kỷ luật như sau: Trường Chinh mất
chức Tổng bí thư, chỉ còn làm uỷ viên BCT, còn
Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương mất chức
uỷ viên BCT, Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi
TW ÐLÐVN. Ông Hồ Chí Minh kiêm nhiệm Tổng bí thư, còn Lê
Duẩn làm bí thư TW, thường trực BCT.
- 29.10.1956 - mít tinh lớn tại Nhà Hát Nhân dân Hà Nội, uỷ
viên BCT đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ
tịch Hồ Chí Minh và TW ÐLÐVN chính thức công nhận những
sai lầm nghiêm trọng trong CCRÐ. Nhân đây, xin nói rõ: một
vài người viết không đúng là cuộc mít tinh tổ
chức tại sân vận động Hàng Ðẫy và ông Hồ
đã đến dự và khóc trước dân chúng. Hà Nội
được giao cho việc tổ chức mít tinh nên tôi
biết rõ. Hồi đó, chúng tôi được giải
thích: "Bác đến không tiện", nhưng chúng tôi đều
hiểu là ông Hồ muốn đưa ông Giáp ra "chịu trận"
thay mình, nên không hề có việc ông Hồ khóc trước
dân chúng.
Ở hải ngoại, cho đến
nay cũng đãõ có một số tài liệu nói đến
những bạo hành, những tội ác trong CCRÐ, cuốn
sách nói về đề tài này khá kỹ ra mắt sớm nhất
(1964, bằng tiếng Anh) là cuốn "Từ Thựïc Dân Ðến
Cộng Sản" của ông Hoàng Văn Chí. Còn ở trong
nước thì đến nay, chưa có một công trình
nghiêm túc nào nghiên cứu, chưa ra một tiểu thuyết
nào viết riêng về đề tài CCRÐ. Tại sao? Dễ
hiểu là sau khi bị bắt buộc phải thừa nhận
những sai lầm trong CCRÐ, BCT TW Ðảng ra lệnh miệng
tuyệt đối cấm không được nói đến
đề tài này. Người đầu tiên "vi phạm"
tabou thiêng liêng đó là nhà văn Hà Minh Tuân - anh đã viết
lướt qua rất nhẹ nhàng đến đề tài
cấm kỵ đó trong tác phẩm "Vào Ðời". Tức thì
Nguyễn Chí Thanh hô hoán lên là "tư tưởng địa
chủ ngóc đầu dậy", và anh bị hành hạ hết
nước. Từ đó mọi người ai cũng im
re, "lo giữ cái đội nón của mình" (nhóm từ thông dụng
hồi đó có nghĩa là giữ đầu mình)... Mãi sau
này, chỉ có vài nhà văn rụt rè mon men đến đề
tài đó mà thôi. Hy vọng rồi đây sẽ có nhiều
nhà văn, nhà nghiên cứu trong nước vượt qua nỗi
sợ "truyền kiếp", dám đề cập đến
đề tài đau thương này một cách nghiêm túc và
toàn diện.
Nếu nói về những tội
ác trong CCRÐ, theo tôi, cần nêu bật mấy loại chính sau
đây:
Thứ nhất. Tội tàn sát thường dân vô tội
- tội ác chống nhân loại. Người nông dân Việt
Nam hiền hoà, chất phác đang làm ăn sinh sống và hết
lòng đóng góp vào cuộc kháng chiến chống Pháp, bỗng
dưng ÐCS giáng cho họ một đòn chí mạng. ÐCS nói rằng
CCRÐ là một cuộc cách mạng để thực hiện
ước mơ muôn đời của nông dân: "người
cày có ruộng" - nhưng thực tế thì không phải
như vậy, thực tế là nông dân bị đánh đòn
chí mạng! Tầng lớp năng nổ, giỏi giang biết
làm ăn nhất ở nông thôn thì bị quy là địa chủ,
phú nông, thậm chí cường hào ác bá, bị triệt hạ
hết đường sinh sống, còn một loạt cán bộ
ở nông thôn đã từng chịu đựng gian khổ
làm nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến, sản xuất
thì bỗng nhiên bị quy là phản động, gián điệp,
Việt gian, v.v... bị trừng trị, nhiều người
bị bắn giết vô cùng man rợ. Ngay cả nhiều
người trung nông, thậm chí một số bần nông cũng
"bị kích lên" làm địa chủ cho đủ cái tỷ
lệ quái gở 5% địa chủ (so với dân số
thôn xã!) và họ phải cam chịu cái số phận mà ÐCS
dành cho địa chủ. Cái tỷ lệ quái gở 5%
đó lại kèm thêm những "kết luận" quái đản
khác: đã có địa chủ, tất phải có cường
hào ác bá! Thế là người dân chịu chết! Biết
bao nỗi oan khuất không thể nào kể hết. Cái
phương châm "thà sai hơn là bỏ sót", cộng thêm với
việc "thi đua lập thành tích đánh phong kiến"
đã gây ra tình trạng "kích thanh phần", "nống thành
tích" cố tìm ra nhiều địa chủ, phản động,
xử tử nhiều ác bá... để có được bằng
khen, huân chương, để ngoi lên địa vị cao
hơn... càng làm cho nỗi khổ đau của người
dân tăng lên nhiều gấp bội! Chỉ xin dẫn vài
chuyện mà thôi.
Một anh bạn đi làm CCRÐ ở
Khu Bốn kể lại. Ở Khu Bốn, hồi đó ai cũng
biết danh Chu Văn Biên, bí thư Khu uỷ, và Ðặng Thí,
phó bí thư khu uỷ, khét tiếng hiếu sát trong CCRÐ, họ
đều là trưởng và phó đoàn CCRÐ. Thậm chí trong
dân gian lưu truyền bài vè có câu "Giết người nổi
tiếng gã Chu Biên". Anh bạn tôi kể chuyện Ðặng
Thí ký hai án tử hình trên ghi đông (guidon) xe đạp! Chuyện
như sau: một đội tới làm CCRÐ ở một
xã nghèo ở Nghệ An, quê hương của ông Hồ Chí
Minh và Hồ Viết Thắng, tìm mãi mà không thể quy ai là
địa chủ được (những ai đã từng
đến tỉnh này đều biết cảnh nghèo chung
của dân chúng ở đây). Ðặng Thí "đả thông
tư tưởng" là cố vấn Trung Quốc dạy rồi
phải có 5% địa chủ. Ðội sợ trên "đì",
tính ra cả làng từng này hộ, từng ấy nhân khẩu,
thôi thì cũng buộc phải kiếm ra năm địa
chủ. Tưởng thế là xong, nào ngờ khi báo cáo lại
cho Ðặng Thí thì... Liếc mắt qua không thấy có danh
sách "lên thớt", bực mình Thí mới xạc cho "anh đội"
một trận: "Có địa chủ mà không bắn thằng
nào cả à?" và ném cả tập giấy vào mặt đội
trưởng. Cuối cùng thì đội cũng lọc ra
được "hai địa chủ để bắn" vội
chạy lên đoàn báo cáo. Giữa đường gặp Ðặng
Thí đang đi xe đạp, tay đội trưởng
đưa báo cáo và danh sách bắn hai người. Thí còn
đang vội, vẫn ngồi trên yên xe, chẳng thèm xem hết
nội dung, đặt "đơn đề nghị bắn
hai người" lên ghi đông xe đạp, mở vội
xà cột (sacoche), rút bút ký toẹt vào.
Xong rồi
Thí đạp xe đi thẳng.
Một ông bạn làm việc ở Viện Khoa học Việt
Nam đã đi làm CCRÐ kể lại chuyện thương
tâm này. Ðội mà ông bạn có chân về một làng nghèo ở
Thái Bình, không thể nào tìm đâu ra đủ số địa
chủ, và cũng không thể nào tìm ra địa chủ ác
bá để bắn. Họ lo lắm. Thế là họ
đưa một ông chăn vịt vào danh sách bị bắn!
Làng nào cũng thế thôi, mấy ông "gột vịt" (ấp
trứng nuôi vịt con) chẳng bao giờ được
dân làng ưa cả, vì lùa vịt con xơi thóc lúa của
dân, thế mà lại hay to mồm cãi lại, gây gổ. Thế
là "đủ yếu tố cấu thành tội", trong đó
có tội "bị dân làng ghét cay ghét đắng". Ðịa chủ
bóc lột thóc của nông dân, vịt cũng ăn cướp
thóc của nông dân, vịt không thể bắn được
thì chủ nó phải chịu thay! Ai cũng vui vẻ cả.
Ông bạn biết là sai nhưng không dám mở miệng khi
"cổ máy nghiền thịt" của Ðảng đã khởi
động rồi!
Cho đến nay, không ai biết số
người bị quy oan, bị tù oan và bị giết oan là
bao nhiêu vì ÐCS giấu tịt. Những con số mà nhiều
người đưa ra chỉ là ước đoán. Hồi
cuối năm 1956, khi tôi được Thành uỷ Hà Nội
giao cho trách nhiệm sửa sai CCRÐ ở ngoại thành Hà Nội.
Vì tính chất quan trọng của việc đó ở thủ
đô, nên ông Võ Nguyên Giáp được BCT phân công giúp đỡ
việc sửa sai ở Hà Nội. Vì thế, thỉnh thoảng
tôi đến nhà ông Giáp làm việc. Ðôi khi chúng tôi cũng nói
chuyện với nhau về những vấn đề chung.
Một hôm tôi hỏi thẳng ông: trong CCRÐ có bao nhiêu người
bị oan. Ông Giáp nói hai vạn. Lúc đó tôi không dám hỏi
thêm cụ thể hơn - thế thì bao nhiêu người bị
chết oan, vì tôi biết là mình đã đụng đến
vấn đề cấm kỵ nhất của Ðảng. Cho
đến nay, tôi không biết con số mà ông Giáp nói với
tôi có thật hay không, nhưng hôm đó ông trả lời tôi
tức thì, không nghĩ ngợi gì, nên tôi cũng có phần
tin. Còn số người bị hành quyết trong CCRÐ và Chỉnh
đốn tổ chức thì tôi ước đoán là chừng
năm-sáu nghìn người. Ðó là chưa kể nhiều
người bị chết vì các lý do khác, như tự tử
trước khi xét xử, chết khi bị tra của hay bị
giam cầm ở xã, chết trong tù, người nhà địa
chủ chết đói do bị bao vây, v.v... Tại cuộc
mít tinh tối 29.10.1956, ông Võ Nguyên Giáp chỉ cho biết con
số 12 nghìn cán bộ và đảng viên đã được
trả tự do mà thôi! Con số đó đúng hay không, ai mà
biết được! Tóm lại, những con số về
người bị thiệt mạng trong CCRÐ vẫn chưa
xác định được. Dù thế chăng nữa, với
những con số ước tính đã cho thấy đây là
một tội ác tày trời. Tội ác này chính là tội ác
chống nhân loại!
Còn chuyện "sửa sai" thì cũng
chỉ là một lối "tung hoả mù" chủ yếu để
làm dịu đi phần nào nỗi công phẫn dữ dội
của dân chúng, tránh những cuộc bùng nổ bất lợi
cho Ðảng mà thôi. Chúng tôi đã từng đi làm sửa sai
nên biết khá rõ. Có nhiều cái sai không thể nào "sửa"
được. Bắn giết người ta, làm què quặt
thân thể, làm tổn hại tâm thần người ta (có
không ít người bị điên, bị mất trí, bị
lẩn thẩn), làm gia đình người ta tan vỡ...
thì chỉ có Trời mới sửa được! Ngay cả
những việc tưởng chừng không khó sửa lắm,
nhưng cũng không thể sửa nổi, chẳng hạn,
gia đình bị quy là địa chủ, nhà cửa bị
tịch thu chia cho mấy hộ nông dân, khi được
xét là quy oan phải trả lại nhà cho người chủ
cũ. Nhưng, khi biết là phải trả lại nhà, các
ông bà nông dân bèn cạy gạch, cạy cửa, dở ngói,
rút rui mè, cất giấu hết, phá phách gần như tan
nát cả ngôi nhà họ đang ở. Nên cái nhà được
trả lại đâu còn nguyên vẹn như trước.
Còn các "quả thực" khác khi đã chia rồi thì sửa
sai làm sao được! Thóc lúa, nông dân ăn hết, bán hết
rồi (hoặc khai như thế), nông cụ bị tiêu tán
hết (hoặc khai hư hỏng rồi), thì lấy gì mà
trả lại cho người ta. Ðó là không nói đến những
quan hệ tình cảm đã bị tổn thương, giữa
vợ chồng, giữa anh em, giữa họ hàng, giữa
thầy trò, giữa hàng xóm, láng giềng thì chẳng làm gì
được, ngoài việc khuyên nhủ chung chung. Trong sửa
sai chỉ có việc này làm được là trả tự
do cho những người bị tù oan. Còn việc khôi phục
lại chức vụ cho một số cán bộ đã bị
đấu tố cũng đã thực hiện, nhưng cũng
không giản đơn vì quan hệ khá phức tạp giữa
cán bộ mới với cán bộ cũ.
Nhân thể cũng xin nói thêm, khi hội nghị lần thứ
10 của TW ÐLÐVN hồi tháng 09.1956, TW buộc phải thừa
nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRÐ, người
ta cũng đổ lỗi một phần cho cấp dưới
đã thi hành sai, chứ TW Ðảng không nghiêm khắc tự
phê phán mình, họ vẫn coi "đường lối của
TW về cơ bản là đúng", chỉ có "việc tổ
chức thực hiện không đúng" mà thôi. Họ vẫn
khư khư khẳng định: CCRÐ dù có sai lầm
"nhưng về cơ bản vẫn giành được thắng
lợi lớn". Ðiều đó nói lên sự giả dối,
nguỵ biện, sự không thực lòng hối hận của
họ. Thế thì làm sao mà Ðảng sửa sai được?!
Còn cái gọi là thi hành kỷ luật với các ông lãnh đạo
CCRÐ cũng chỉ là trò hề "giơ cao đánh khẽ"
để lừa dối dư luận mà thôi. Trường
Chinh mất ghế Tổng bí thư, nhưng lại vẫn
là uỷ viên BCT, chuyển sang ngồi ghế Chủ tịch
Quốc hội, lại phụ trách công tác tư tưởng,
rồi chính ông ta đã cùng Tố Hữu bày ra vụ Nhân
Văn - Giai Phẩm đàn áp quyết liệt anh chị em
trí thức ưu tú, khao khát tự do, làm bao văn nghệ sĩ
tài ba bị tù dày, bị đàn áp, bị treo bút trong hàng mấy
chục năm trời, đánh một đòn nặng nề
vào nền văn học miền Bắc, làm nó bị thui chột
trong nhiều thập niên. Hoàng Quốc Việt (một
người nổi tiếng "ác liệt nhất" chẳng
những trong CCRÐ mà trong nhiều vụ trước nữa,
chẳng hạn, vụ H122 xảy ra trong kháng chiến chống
Pháp, ông phụ trách xét vụ này, đã bắt giam nhiều
cán bộ, phần đông là cán bộ quân đội, và làm
chết oan nhiều người), bị đưa ra khỏi
BCT thì lại trao chức vụ Viện trưởng Viện
kiểm sát tối cao là chức vụ nắm quyền sinh
quyền sát con người, Lê Văn Lương chịu
trách nhiệm về Chỉnh đốn tổ chức
đã làm cho nhiều cán bộ đảng viên ở xã bị
bắn giết, bị tù đày, phải ra khỏi BCT thì
sau này lại được đưa về làm bí thư
Thành uỷ Hà Nội, còn Hồ Viết Thắng bị
đưa ra khỏi TW Ðảng thì lại cho làm uỷ viên
thường trực Uỷ ban Kế hoạch nhà nước!
Trái lại, người ngoài Ðảng mà dám thẳng thắn
phát biểu ý kiến với ÐCS, cho dù nhẹ nhàng chăng nữa,
như trường hợp luật sư Nguyễn Mạnh
Tường đọc bài tham luận tại hội nghị
Mặt trận Tổ quốc phê phán cuộc CCRÐ và
đưa ra những đề nghị hợp lý thì Ðảng
trù dập ông, dồn ông vào cảnh khốn cùng cho đến
chết! Và thử hỏi có bao giờ TW Ðảng thành thực
sám hối về những sai lầm, những tội ác của
mình hay không?
Chẳng những không sám hối
mà cả cho đến ngày nay, ÐCS vẫn cứ nói lấy
được là CCRÐ đã giành được thắng lợi
lớn: "thực hiện ước mơ nghìn đời"
của nông dân - đem lại ruộng đất cho
người cày. Ðây là một sự dối trá trắng trợn.
Vì ruộng đất nông dân được chia thì một
phần đáng kể là của những người bị
quy oan, khi sửa sai cuối cùng phải trả lại. Phần
ruộng đất chia còn trong tay nông dân, họ chưa kịp
được hưởng gì trên mảnh đất
được chia đó thì năm 1957-1958, ÐCS đã bắt
đầu lùa họ vào hợp tác xã để tập thể
hoá nông nghiệp, nghĩa là họ không còn làm chủ ruộng
đất của họ! Vả lại, xét cho cùng, "đem
lại ruộng đất cho người cày" đâu
có phải là mối quan tâm chính yếu hay là mục đích
tối hậu của Ðảng? Cho nên đến khi sửa
đổi Hiến pháp sau ngày thống nhất đất
nước, bằng một điều khoản mới
trong Hiến pháp, Ðảng đã nhẹ nhàng quốc hữu
hoá toàn bộ ruộng đất trong cả nước! Thế
thì làm sao có thể nói là Ðảng "đem lại ruộng
đất cho người cày" được?! Quả thật
là người nông dân chịu bao nhiêu đau thương
tang tóc cuối cùng chẳng được gì cả!
Thứ hai. Tội phá hoại truyền thống tốt
đẹp mấy nghìn năm của dân tộc. Truyền
thống hiếu hoà, thương yêu, đùm bọc lẫn
nhau ở nông thôn Việt Nam được dân tộc ta xây
dựng hàng nghìn năm đã bị ÐCS phá vỡ trong vòng
ba-bốn năm CCRÐ. Nếu ai đã từng sống ở
nông thôn Việt Nam trước "cách mạng", trước
CCRÐ đều cảm nhận cái tinh thần "đùm bọc
nhau", "lá lành đùm lá rách" còn khá đậm đà trong mối
quan hệ giữa người với người. Cố
nhiên, không ai nói là ở các làng quê không có những kẻ bóc lột,
nhưng tinh thần chung ở nông thôn ta là như vậy. Với
cái chính sách "phân định thành phần giai cấp", ÐCS chia
cư dân nông thôn thành cố nông, bần nông, trung nông (có ba loại,
trung nông yếu, trung nông vừa, trung nông cứng), phú nông
(có hai loại, phú nông thường, phú nông ngấp nghé địa
chủ - đây là "sáng kiến" của người chấp
hành để khi cần thì dễ "kích" họ lên địa
chủ, chứ trong chính sách thì không chia ra), địa chủ
(có mấy loại, địa chủ yêu nước và kháng
chiến, địa chủ thường, địa chủ
cường hào ác bá, địa chủ phản động).
Sự phân chia có vẻ "khoa học" lắm, nhưng khi thực
hiện thì tất cả đều do cảm tính chủ
quan, do nhu cầu của "đội" (khi trên bắt phải
đủ 5% địa chủ, bắt phải có ác bá, phản
động để bắn, thì cứ phải "kích" lên cho
đủ số), do ý muốn chủ quan của "ông đội"
(nhiều khi ý muốn đó rất quái đản, thấy
thái độ của đương sự có vẻ ngang
bướng thì cứ "kích" lên cho bõ ghét). Về nguyên tắc,
muốn phân định thành phần thì phải "tố khổ",
phải "tố" nhau, vạch nhau ra để "xếp" thành
phần. Với lối xúi giục, cưỡng ép người
dân tố giác lẫn nhau rất phổ biến trong CCRÐ, nên
từ đó họ chia rẽ nhau, thù ghét nhau. Cũng có nhiều
người lúc đầu không muốn "tố" ai hết vì
không muốn làm trái lương tâm, nhưng ai không chịu
"tố" thì bị đội CCRÐ coi là chưa "dứt khoát",
"có liên quan", v.v... cuối cùng thì ai cũng tham gia vào cuộc
"tố" lẫn nhau để giữ mạng mình. Ðây là số
đông. Nhưng cũng có không ít những kẻ hoặc vì
tư thù, hoặc vì muốn trục lợi, "tố
điêu", "tố láo" để ngoi lên làm "rễ", làm "cốt
cán", làm cán bộ, để được chia "quả thực"
nhiều hơn. Mà thường cái đám người này
nghèo túng vì lười biếng, vì rượu chè, cờ bạc,
có khi là những phần tử lưu manh, nhưng thường
lại được đội coi như là bần cố
nông để dựa, o bế, sử dụng nhằm...
hoàn thành nhiệm vụ của đội. Một điều
kỳ quái cần nói nữa là: mọi lời "tố" của
nông dân đều không cần bằng chứng, hơn nữa
mọi lời "tố" của họ đều được
coi là bằng chứng, đều được ghi vào hồ
sơ tội trạng! Không cần có bất cứ một
sự kiểm chứng nào hết! "Lý luận" chung hồi
đó là "phải tin tưởng ở quần chúng", "nông
dân lao động đã nói là đúng". Thế là không còn ai
cãi được nữa! Chính vì thế, khi đội cần
"đánh vào" bí thư hay chủ tịch uỷ ban kháng chiến
trước ở vùng tạm bị chiếm, nay bị coi
là tổ chức cũ, mà có một ai đó "tố" là "chúng
nó họp Quốc Dân Ðảng" thì bị "lên hồ sơ"
ngay là "bí thư Quốc Dân Ðảng", và anh ta khó tránh khỏi
cái án tử hình! Một nông dân "tố" một người
bị "kích" lên địa chủ là "hồi kháng chiến,
khi máy bay địch tới, tôi thấy hắn nhìn lên trời
và chỉ chỏ cái gì đó", tức thì bị quy ngay là
"gián điệp" và số phận anh ta coi như là "đi
đứt"! Có thể là thế hệ mới lớn lên, nhất
là những người đang sống ở các nước
dân chủ tiên tiến, thì khó mà tin là đã có những chuyện
như thế. Khốn thay đó lại là sự thật
đắng cay đã từng xảy ra trong lịch sử
nước nhà!
Tóm lại, CCRÐ làm cho nội bộ nông dân chia rẽ trầm
trọng, làng xóm đảo lộn lung tung! Ðến khi ÐCS
tuyên bố sửa sai thì tình hình nông thôn lại cực kỳ
hỗn loạn: những vụ ẩu đả, đâm
chém, trả thù nhau giữa những người bị "tố
oan" với những kẻ "tố điêu", giữa những
người bị tước đoạt tài sản với
những người được hưởng "quả
thực", giữa cán bộ cũ bị quy kết phản
động và bị tù tội với cán bộ mới "ngoi
lên" trong CCRÐ... Di sản nghìn năm rất đáng quý mà cha
ông ta đã để lại là tinh thần đùm bọc,
hoà hiếu nhau của người dân nông thôn miền Bắc
đã bị phá huỷ từ ngày CCRÐ. Lẽ nào đó không
phải là một tội ác?
Thứ ba. Tội phá hoại đạo lý, luân thường
của dân tộc. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam
chưa bao giờ đạo lý làm người bị đảo
điên một cách quái đản như trong CCRÐ. Các đội
CCRÐ không từ một cách nào hết để "tìm ra địa
chủ", "tìm ra phản động", "tìm ra của chìm", họ
ép buộc con cái "đấu tố" cha mẹ, con dâu "đấu
tố" bố mẹ chồng, con rể "đấu tố"
bố mẹ vợ, vợ "đấu tố" chồng,
anh em "đấu tố" lẫn nhau, trò "đấu tố"
thầy, kẻ hàm ơn "đấu tố" người
đã làm ơn, láng giềng hàng xóm "đấu tố" lẫn
nhau! (Cũng có trường hợp cha mẹ bấm bụng
khuyên con cái "đấu tố" mình để mong cứu mạng
cho con cái). Thật là một tấn bi kịch hãi hùng! Những
người bị quy là địa chủ ngay lập tức
bị tước mọi quyền làm người, bị hạ
nhục, bị chà đạp, ngay lập tức phải
thay đổi cách xưng hô trước nông dân, phải cúi
đầu lễ phép "thưa các ông, các bà nông dân", phải
xưng "con" trước mặt nông dân, dù đó chỉ là một
đứa trẻ con. Còn nông dân thì tha hồ gọi người
kia là "thằng kia", "mụ kia", "con kia", là "mày", "chúng bay" và tự
xưng là "tao", "chúng tao", thậm chí có thể chửi mắng,
xỉ vả. Chẳng ai dám làm trái lại cái "lệ mới"
đó - đội tuyên bố phải đối xử
như thế mới "nâng cao uy thế nông dân", mới
"đánh gục giai cấp địa chủ" được!
Không làm thế là "bênh địa chủ", "mất lập
trường giai cấp", thậm chí "có liên quan với
địa chủ"! Ngay cả đứa bé con cũng có thể
mắng mỏ, sỉ nhục người lớn đã bị
quy là địa chủ. Những người này, dù là thứ
bậc thế nào trong họ tộc cũng đều bị
bà con họ tộc xa lánh, để không "bị liên quan".
Còn khi hành quyết người bị án tử hình thì những
người thân thích, ruột thịt của người ấy,
từ già cả cho đến trẻ con, đều bắt
buộc phải có mặt để chứng kiến tận
mắt cảnh tượng đó! Ðúng là sự khủng bố
tinh thần cực kỳ vô nhân đạo!
Một tình trạng thương tâm nữa là nhiều gia
đình ở nông thôn (và cả ở thành phố có liên hệ
với nông thôn) đã tan vỡ, con cái bơ vơ, vì khi một
trong hai người có gia đình bị quy (hoặc bị
kích lên) thành phần địa chủ, bị gán tội phản
động, thì bên kia, tức là vợ hay chồng, sợ
liên luỵ phải bỏ nhau. Nhiều người đi lập
gia đình khác, có con hoặc chưa có con với chồng
hay vợ mới. Ðến sau này thấy sai, người bị
bắt đi tù nay được trở về, thế là
bao nhiêu chuyện rắc rối xảy ra đến nỗi
Bộ tư pháp VNDCCH phải ra thông tư ngày 19.04.1956 để
"giải quyết những vụ vợ chồng bỏ
nhau". Thật là mỉa mai, người ta cho rằng có thể
hàn gắn được tình cảm yêu thương trong
gia đình đã bị thương tổn nặng nề bằng
một tờ thông tư vô hồn của Bộ tư
pháp! Tình yêu của nam nữ cũng bị xâm phạm
nghiêm trọng giống hệt như thế - để giữ
lập trường giai cấp ai cũng phải cắt đứt
với người yêu thuộc thành phần địa chủ,
phản động!
Ðây cũng là một nét về đạo đức nữa
cần phải nói đến. Chưa bao giờ sự giả
dối trắng trợn được đề cao
như trong CCRÐ. Chẳng cần phải nói tới việc
các "anh đội", "chị đội" báo cáo láo cho
đoàn, vì nó quá thường, mà cái cần vạch ra ở
đây chính là người ta ép buộc, khuyến khích
người nông dân nói dối, làm láo. Dần dà rồi
người nông dân cũng thấy cần phải nói dối,
làm láo để "qua khỏi cái đận CCRÐ", họ cũng
"tố bậy", "tố điêu" dù trong thâm tâm biết mình
đang nói dối, vu khống. Cũng có người cố
giữ lương tâm trong sạch, nhưng thường họ
phải trả giá đắt cho điều đó. Cho nên
cơn dịch dối trá cứ lan tràn. Ðội cũng dạy
thêm cho nông dân quen làm những việc giả dối, chẳng
hạn như dặn họ: khi thấy trên màn ảnh xuất
hiện hình địa chủ thì phải hô "đả
đảo", hay vừa hô vừa ném đá vào hình địa
chủ để tỏ lòng uất hận của mình. Thế
là nông dân cũng làm theo. Tất nhiên, cũng không loại trừ
cái hiện tượng gọi là "tâm lý đám đông", khi
người ta hành động như trong một cơn lên
đồng tập thể. Chẳng hạn, mỗi lần
chiếu phim "Bạch Mao Nữ" củaTrung Quốc, thì có
nhiều người khóc nức nở, và khi xuất hiện
hình địa chủ là bên dưới ào ào ném đá vào màn ảnh.
Chính vì thế, các diễn viên kịch thường từ
chối lên sân khấu đóng vai địa chủ vì sợ
vỡ đầu sứt trán.
Chủ trương của UBCCRÐTW là trong các cuộc đấu
địa chủ, nhất là địa chủ cường
hào ác bá đều phải chuẩn bị rất chu đáo
để ra "đấu trường" không được
vấp váp. Thế là trước ngày đấu, mọi "rễ",
"chuỗi", dân quân, công an, toà án, chủ tịch đoàn...
đều phải "diễn tập" như thật, ai lên
"đấu" trước, ai lên "đấu" sau, "tố" thế
nào, xỉa xói ra sao, nói gì, khi nào người "tố" phải
cảm động khóc lóc, khi nào người dân phải hô
"đả đảo" (khi người bị "tố" không
nhận tội...), lúc nào thì bắt địa chủ quỳ
(quỳ là biểu hiện của sự "bị đánh gục"!),
lúc nào thì "hoan hô" (khi toà tuyên án tử hình, tịch thu tài sản...).
Chủ tịch đoàn những cuộc đấu lớn
đều là "rễ", "chuỗi", cốt cán mới đào tạo
trong vài tháng, nói năng ngượng nghịu, lúng ta lúng
túng, điều khiển thế nào nổi, nên khi ra "đấu
trường", thường "anh đội", "chị đội"
phải ngồi sau lưng nhắc, như người nhắc
tuồng (souffleur) ở rạp hát! Cũng có khi nhắc mãi
không được, chủ tịch đoàn cuống lên, thì
"anh đội" giật micro và điều khiển luôn. Tóm
lại, một sự diễn kịch, một trò giả dối
lố bịch, trắng trợn, mà không hề không biết
ngượng! Nhưng cái nguy hại chính là sự giả dối
đó cứ thấm dần vào tiềm thức cán bộ và
người dân, tạo nên một nếp sống giả dối
vô đạo đức của nhiều người!
Thứ tư. Tội phá huỷ truyền thống tâm
linh và văn hoá của dân tộc. Bằng cuộc CCRÐ, ÐCS cố
tình triệt hạ các tôn giáo và truyền thống tâm linh của
dân tộc. Trước CCRÐ, các nhà thờ Thiên chúa giáo, các tu
viện, nhà cô nhi... đều có ruộng đất riêng,
các chùa có ruộng hậu do tín chủ cúng cho chùa, các nhà thờ
họ có ruộng họ, các đình có ruộng làng... để
lo việc sửa sang, tu bổ nhà thờ, chùa, đình, cúng
tế hàng năm, việc từ thiện, v.v... và để
nuôi sống các linh mục, tu sĩ, tăng ni và những
người chuyên lo việc trông nom, thờ phụng... Nhờ
thế hoạt động tôn giáo, tâm linh, từ thiện
được tiến hành bình thường không có trở
ngại. Nhưng với chính sách CCRÐ của ÐCS, tất cả
các ruộng đất đó đều nhất loạt bị
coi là ruộng đất phong kiến và bị trưng thu
để chia cho nông dân. Với cái đòn độc địa
đó, tất cả các nhà thờ, tu viện, nhà cô nhi, chùa
chiền, điện thờ, miếu mạo, nhà thờ họ,
đình... đều trở nên điêu đứng và đần
dần tàn tạ. Riêng đối với nhà thờ Thiên chúa
giáo, do phong trào giáo dân ồ ạt di cư vào Nam, nên về
sau Ðảng đã phải để lại cho các nhà thờ
một ít ruộng đất. Người ta công nhiên dùng
các cơ sở thờ cúng vào việc họp hành, đóng
quân, làm hội trường, làm kho hợp tác xã mua bán, kho hợp
tác xã sản xuất, v.v... Có nơi thậm chí người
ta cho các tượng Phật trôi sông. Nhiều nơi bà con
tín đồ bí mật cứu các tượng Phật,
đem chôn, đem giấu hầm kín, sau này phần lớn
các tượng gỗ đều mục nát, thế
nhưng cũng có ít tượng còn giữ được,
vào thập niên 80 bà con mới đưa lại vào chùa. Tóm lại,
cuộc sống tâm linh hoàn toàn bị xoá bỏ. Chữ "thiện",
chữ "nhân" một thời gian dài chẳng ai dám nói
đến, vì giữa lúc cái ác tràn đầy mà nói đến
chữ "thiện", chữ "nhân" thì có thể bị coi là biểu
hiện sự phản đối!
Trong lúc đó, người ta lại
đề cao bạo lực, cổ vũ đấu tranh
giai cấp, khuyến khích điều ác, điều bất
nhân, điều vô đạo. Một điều rất
quái dị trong CCRÐ mà ÐCS lại coi là tự nhiên hoặc là cần
thiết: người ta thường xuyên huy động
các cháu thiếu niên từ 9-10 tuổi trở lên tham gia CCRÐ.
Bắt chúng mang trống ếch đi cổ động,
đi "đả đảo", "hoan hô", tham dự các cuộc
đấu tố, các phiên toà CCRÐ, các buổi hành quyết
công khai. Nhiều cháu, nhất là các cháu gái, vốn có tâm lý hiền
lành bị bắt buộc phải tham gia, đã không chịu
nổi, run sợ, khiếp đảm, có cháu ngất xỉu
trước cảnh hãi hùng, súng bắn, máu đổ... Còn
các cháu vốn có tâm lý hung dữ thì lại thích thú hoan hô, thậm
chí sau khi "được" tham dự những cảnh tượng
đó, có nơi chúng lại bày trò chơi "đấu tố",
bắt con cái địa chủ quỳ để con cái nông
dân lên đấu, cũng xỉa xói vào mặt, cũng xỉ
vả, vạch tội... Chẳng biết có ai xúi giục
không, nhưng nhiều nơi đã xảy ra những "trò
chơi" quái đản đó! Khi cái thiện bị nén xuống
mà cái ác được cổ vũ, thì chẳng có gì
đáng ngạc nhiên là đạo đức bị suy đồi,
băng hoại dưới chế độ của những
người cộng sản. Tôi còn nhớ trong thời kỳ
"cởi trói", đã được đọc truyện ngắn
"Bước Qua Lời Nguyền" của Tạ Duyên Anh
đăng trên tuần báo "Văn Nghệ" (1989) ở Hà Nội,
truyện đó phản ánh phần nào tấn bi kịch
của giới trẻ nông thôn đã lớn lên trong và sau cuộc
CCRÐ đầy kinh hoàng.
Không những CCRÐ đánh một
đòn rất mạnh vào nền đạo lý và truyền
thống nhân bản, mà nền văn hoá dân tộc cũng
vì nó mà bị tổn hại rất nặng nề. Nhiều
miếu đền uy nghiêm bề thế, nhiều bia đá
là những di tích văn hoá lâu đời của dân tộc
đã bị huỷ hoại trong CCRÐ. ÐCS giấu kín những
chuyện này, nhưng cũng có thể nêu ra vài trường
hợp. Mong rằng các bạn xa gầân, trong và ngoài nước
sưu tầm và bổ sung thêm. Chẳng hạn, cụ Nguyễn
Mai (1876-1954) là hậu duệ đời thứ 14 của
dòng họ Nguyễn Tiên Ðiền, gọi thi hào Nguyễn Du
(1765-1820) đời thứ 11 là bác. Ðầu năm 1954, lúc 78
tuổi cụ bị đội và đoàn CCRÐ quy là địa
chủ (vì có vài mẫu cho phát canh để sống) lại
bị "kích" lên thành phần phong kiến cường hào (vì
cụ từng đỗ cử nhân khoa Canh Tý (1900) lúc 24 tuổi,
lại đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1904) lúc 28 tuổi),
mà thật ra cụ không hề nhận chức tước,
phẩm hàm gì, chỉ cam phận sống thanh nhàn ẩn dật.
Cụ bị đấu ba đêm liền, bị kết án
15 năm tù khổ sai, bị giam ở trại Ðâng, tỉnh
Hà Tĩnh, là nơi nước rất độc, nên ngay
mùa thu năm ấy, cụ bị phù thũng chết trong trại
tù, vùi xác ở ven rừng. Cụ Nghè Nguyễn Mai từ trần
trong uất hận là nỗi đau lớn, nhưng nỗi
đau còn lớn hơn nữa cho dân tộc là do cụ bị
quy oan như vậy, mà đội CCRÐ đã phá huỷ nhiều
đền đài, bia, miếu thờ của các danh nhân họ
Nguyễn Tiên Ðiền và nghiêm trọng hơn nữa đã
đốt cháy ngôi nhà năm gian chứa đầy thư tịch
quý giá của dòng họ Nguyễn Tiên Ðiền, trong đó có
di cảo của thi hào Nguyễn Du. Một sự mất
mát lớn lao về văn hoá không có gì bù lại được!
(Xem sách "Bể Dâu Trong Dòng Họ Nguyễn Du" của Ðặng
Cao Ruyện, NXB Miền Ðông Hoa Kỳ, 2002, tr. 200, 201).
Còn một chuyện này nữa.
Trong cuộc hội nghị cán bộ do TW Ðảng triệu
tập sau khi có nghị quyết sửa sai trong CCRÐ hồi
tháng 09.1956, tôi được nghe ông Cù Huy Cận, lúc
đó là thứ trưởng Bộ văn hoá, nói ở cuộc
họp tổ là tấm bia đá của Lê Lợi đã bị
đội CCRÐ phá huỷ. Bộ văn hoá phải cấp tốc
thuê làm bia khác giống hệt bia cũ rồi đặt
vào chỗ cũ và phải tuyệt đối giữ bí mật
để không ai biết là bia mới! Tôi không có điều
kiện kiểm chứng, nhưng chẳng lẽ ông thứ
trưởng văn hoá lại nói sai?!
Như trên tôi đã viết, tuy là chuyện
CCRÐ đã qua từ lâu rồi, nhưng ngày nay, vẫn cần
phải nói đến, vì ngày nay tập đoàn lãnh đạo
ÐCS đang cố viết lại lịch sử,
đang cho bọn bồi bút xuyên tạc lịch sử
để chạy tội cho ông Hồ Chí Minh và cho ÐCSVN trong
CCRÐ và cả trong nhiều việc khác nữa.
Cần phải nói công bằng là trước năm 1950, ông
Hồ và ÐCSVN không nói đến CCRÐ, chỉ nói đến
giảm tô, mà cũng chỉ trên giấy tờ và rất coi
nhẹ việc thực hiện. Chỉ từ năm 1952, vấn
đề giảm tô và CCRÐ mới đặt ra một cách
gắt gao. Như vậy có thể nói là việc CCRÐ là do sức
ép của Stalin và Mao Trạch Ðông. Nhưng khi ông Hồ
đã nhận làm CCRÐ là ông và ÐCSVN đã làm một cách tin
tưởng và tích cực. Cũùng có thể do yếu tố
tâm lý của một người trước đây đã từng
bị Stalin và Quốc tế Cộng sản coi là hữu
khuynh, thậm chí bị nghi ngờ, không giao việc trong thời
hạn dài, nay lại bị nhận xét là coi nhẹ nhiệm
vụ phản phong, thì ông càng phải cố tỏ rõ tinh thần
mẫn cán, kiên quyết của mình. Quả là hồi đó,
ông Hồ và ÐCSVN cũng thật tình rất tin tưởng
vào Stalin và Mao Trạch Ðông. Chẳng thế mà ông đã công
khai nói trước hội nghị cán bộ (1950) tại
chiến khu Việt Bắc để chuẩn bị cho
đại hội 2 của ÐCS sẽ họp năm sau là:
"Các cô các chú nên biết rằng: ai đó thì có thể sai, chứ
đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Ðông thì
không thể nào sai được". Chính tôi có mặt trong cuộc
hội nghị đó, tôi nghe rõ, nhiều người khác cũng
nghe rõ như thế, có điều bây giờ họ không muốn
hay không dám nhắc lại mà thôi. Ðến đại hội
2 của Ðảng (tháng 03.1951), ông Hồ lại cũng nói
đúng như thế, và cụ Nguyễn Văn Trấn cũng
đã kể lại chuyện đó trong sách của cụ
"Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội". Cho nên ông Hồ
làm CCRÐ rõ ràng với sự tin tưởng và tích cực. Vì
thế, không phải ngẫu nhiên mà cụ Vũ Ðình Huỳnh,
người gần gũi ông nhất thời gian đó sau
này đã "khẳng định người chịu trách nhiệm
chính trong sự gây ra những sai lầm trong CCRÐ là ông Hồ
Chí Minh, chứ không phải ông Trường Chinh, như
đã có sự ngộ nhận kéo dài nhiều năm. Trường
Chinh là con dê tế thần cho sai lầm của ông Hồ"
(xem "Ðêm Giữa Ban Ngày" của nhà văn Vũ Thư Hiên).
Theo tôi, đúng là ông Hồ phải chịu trách nhiệm
chính, như cụ Vũ đã nói, nhưng Trường
Chinh chẳng phải là "con dê tế thần" với cái nghĩa
"oan dương" đâu, vì ông ta vừa là Tổng bí thư,
vừa là chủ nhiệm UBCCRÐTW, ông ta là người điều
hành mọi việc CCRÐ hồi đó, cho nên, nếu Trường
Chinh không phải là thủ phạm số một thì cũng
phải là thủ phạm số hai. Cái ý của cụ Vũ,
theo tôi hiểu, là TW Ðảng trong hội nghị lần thứù
10 (09.1956) đã không đả động gì đến Hồ
Chí Minh, đã không dám nói đến trách nhiệm của ông
Hồ (vì thi hành kỷ luật Chủ tịch Ðảng, Chủ
tịch nước thì... ôi thôi, ÐCS còn gì nữa!) mà chỉ
đưa Trường Chinh và các ông khác ra "chịu trận"
mà thôi.
Sau này, trong giới thân cận
với giai cấp cầm quyền, có những người
hay tung ra những câu chuyện về Hồ Chí Minh không tán
thành chủ trương CCRÐ, không tán thành việc xử tử
bà Nguyễn Thị Năm, không tán thành làm Chỉnh đốn
tổ chức trong CCRRÐ, v.v... Nhưng, xét cho cùng, loại
chuyện đó chỉ là những huyền thoại không
hơn không kém. Những huyền thoại ấy nhằm
đánh lừa những người không biết tình hình thực
tế hồi thập niên 50 ở miền Bắc và những
thế hệ trẻ hậu sinh, nhằm chạy tội
cho ông Hồ để vớt vát cái gọi là "tư tưởng
Hồ Chí Minh" làm phao cứu mạng cho tập đoàn thống
trị cộng sản. Hoàng Tùng, nguyên tổng biên tập
báo Nhân Dân, nguyên bí thư TW ÐCSVN, nhiều năm làm tuyên huấn,
v.v... là một trong số những "chuyên gia" sáng tác huyền
thoại kiểu đó. Trong hồi ký "Những Kỷ Niệm
Về Bác Hồ", ông ta có kể lại về thái độ
của ông Hồ đối với án tử hình bà Nguyễn
Thị Năm như sau: "Họp Bộ chính trị Bác nói:
"Tôi đồng ý người có tội thì phải xử
thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng
đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà
người ấy cũng giúp đỡ cho cách mạng.
Người Pháp nói không nên đánh đàn bà, dù chỉ
đánh bằng một cành hoa". Sau cố vấn Trung Quốc
La Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: "Thôi tôi theo đa số,
chứ tôi vẫn cứ cho là không phải". Và họ cứ
thế làm" (xem đoạn trích, đêăng trên tờ "Diễn
Ðàn Forum" ở Paris, số 123/11.2002, tr.15). Khi kể chuyện
này, Hoàng Tùng đã cố lờ đi mấy điều thực
tế lịch sử rất quan trọng: 1/ vào thời
điểm nửa đầu thập niên 50, uy thế của
ông Hồ trong Ðảng là tuyệt đối, một lời
của ông đã nói ra thì không một ai, kể cả các ông
trong BCT, dám làm trái ý ông hết; 2/ tất cả các ông trong
BCT TW, không trừ một ai hết, đều răm rắp
giữ đúng tư cách một người học trò khiêm
tốn, không bao giờ được phép quyết định
những chủ trương lớn mà không có ý kiến ông,
huống hồ là việc làm trái ý ông. Hồi 1952-1953 thì
không thể nào có chuyện "Thôi tôi theo đa số" và "Và họ
cứ thế làm" được! Nếu thật sự ý
thức được là "không nên đánh đàn bà, dù chỉ
đánh bằng một cành hoa", mà ông Hồ chỉ lắc
đầu một cái thôi, chứ không cần phải nói nhiều
lời như Hoàng Tùng kể, thì chắc chắn là ông
đã cứu được bà Nguyễn Thị Năm! Mà
không chỉ một mình bà Năm! Thêm nữa, cái chữ "họ"
trong câu của Hoàng Tùng "Và họ cứ thế làm" rất mập
mờ: "họ" là ai? Các ông trong BCT hay các cố vấn? Các
ông trong BCT thì chắc chắn là không. Còn các ông cố vấn
có thể họ trái ý với ông Chủ tịch nước,
Chủ tịch Ðảng của Việt Nam, nhưng họ
không thể bắt ép ông được, họ chỉ là cố
vấn, chứ không có quyền biểu quyết, quyết
định. Những cơ quan nào đã từng làm việc
với cố vấn Trung Quốc hồi đó đều
biết cái nguyên tắc đó. Cho nên có thể khẳng
định rằng: Trong vụ án Nguyễn Thị Năm,
đúng là ông Hồ đã không cứu bà Năm. Cũng
như sau này, trong vụ án Xét lại - chống Ðảng, ông
đã không cứu ông Vũ Ðình Huỳnh. Dù rằng ông biết
rõ về họ.
Hơn nữa, một câu hỏi hoàn toàn chính đáng
được đặt ra: trong suốt ba-bốn năm
đằng đẵng lẽ nào ông Hồ và BCT không hề
hay biết gì hết đến những thảm hoạ của
người dân ở nông thôn mà họ cai trị hay sao? Lẽ
nào ông Hồ, Trường Chinh và các ông khác trong BCT không biết
rằng ở quê hương mình những người đồng
hương của họ đang khốn khổ ra sao? Lẽ
nào trong giới thân cận của ông Hồ và các uỷ viên
BCT không có một ai dám phản ánh tình trạng bi đát của
người dân cho họ biết hay sao? Câu trả lời dứt
khoát là: các ông ấy đều có biết, nhưng các ông
đều im lặng! Im lặng đến nỗi ông Vũ
Ðình Huỳnh một lần đang ốm cũng cố chống
gậy lên Chủ tịch phủ gặp ông Hồ và nói toạc
vào mặt ông: "Máu đồng bào, đồng chí đã đổ
mà Bác ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học,
chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa xây dựng
chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm,
nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm
máu đồng bào, đồng chí!" (Xem "Ðêm Giữa Ban Ngày").
Hoàng Tùng cũng đã lờ tịt cái thực tế lịch
sử phũ phàng này: Trong suốt thời gian CCRÐ, ông Hồ,
với tư cách là Chủ tịch nước, chưa hề
ký một lệnh ân xá nào cho một ai bị án tử hình.
Chỉ từ sau Ðại hội lần thứ 20 ÐCS Liên Xô
và nhất là sau hội nghị cán bộ cao cấp và trung cấp
của Ðảng (từ 28.04 đến 03.05.1956), do phản ứng
rất mạnh của cán bộ thì mới có lệnh tạm
thời chưa thi hành các án tử hình. Nhưng, than ôi, lúc
đó thì... CCRÐ về cơ bản đã gần xong rồi!
Lúc đó các đoàn và UBCCRÐTW đang bắt tay làm báo cáo tổng
kết để chuẩn bị cho hội nghị TW
Ðảng kiểm điểm CCRÐ (tháng 09.1956).
Ngay cả việc Chỉnh đốn tổ chức trong
CCRÐ, Hoàng Tùng cũng cố tình đổ lỗi cho cố vấn
Trung Quốc là chính, chứ không phải lỗi của ông Hồ
và ÐCSVN. Ông Tùng viết: "Thuyết của họ là không dựa
vào tổ chức cũ mà tổ chức lại một số
tổ chức của Ðảng, họ phủ nhận hết
các tổ chức khác, như chính quyền, các đoàn thể.
Ai lãnh đạo cách mạng tháng tám thành công, ai lãnh đạo
cuộc kháng chiến từ năm 1945 đến năm
1953. Thế mà họ thẳng tay bỏ hết, trong đó
có mấy ngàn người bị xử tử. Mục
đích của họ không phải là CCRÐ mà là đánh vào Ðảng
ta. May mà dến năm 1956 ta kịp dừng lại (bao nhiêu
đầu rơi, máu đổ và CCRÐ cũng đã gần
xong, thế mà bảo là "kịp"! - Người viết), nếu
không thì tan nát hết". Một đoạn khác: "Ðánh thuế
công thương nghiệp, cải tạo tư sản cũng
là do Trung Quốc đề ra. Hậu quả là hơn một
triệu người di cư vào Nam. Ta đổ tội
cho Pháp, Mỹ, điều đó chỉ đúng phần nào,
còn là do ta vội, làm ẩu, đánh tràn hết. Không phải
địa chủ mà phú nông, thậm chí trung nông cũng
đánh. Ðảng viên tốt cũng bị đánh. Kết quả
của những chính sách, cảùi cách lúc đó là như thế"
(xem tờ "Diễn Ðàn Forum" nói trên). Ðúng là các cố vấn
Trung Quốc chỉ biết có kinh nghiệm CCRÐ ở Hoa
Nam, khi Hồng quân tiến xuống phía Nam, hầu như
không có cơ sở tổ chức của ÐCS, nên có nhiều
người không phải cộng sản cũng đã đứng
ra lập tổ chức, lập chính quyền, vì thế khi
làm CCRÐ thì ÐCS Trung Quốc cố tình nhân cơ hội ấy
quét sạch các tổ chức đó đi lập những tổ
chức mới của họ. Còn ở miền Bắc Việt
Nam, tình hình hoàn toàn khác hẳn. Không thể làm rập khuôn
theo kinh nghiệm Hoa Nam được. Tôi cũng chẳng
thích gì các cố vấn Trung Quốc, nhưng tôi nghĩ rằng
cần phải xét vấn đề khách quan theo đúng sự
thật lịch sử, chứ không thể đổ lỗi,
đổ tội tùm lum cho họ tất cả được.
Ông Hồ và BCT TW ÐLÐVN sống và làm việc ở Việt
Nam, có phải là trẻ con đâu mà bảo các ông cố vấn
Trung Quốc xúi gì là làm nấy? Chẳng qua chỉ vì khi
đã say men "lập trường giai cấp đấu
tranh", say men Marxisme-Leninisme, Stalinisme, Maoisme... trong cuộc
lên đồng tập thể, thì chính các ông lãnh tụ cộng
sản Việt Nam cũng "hăng hái" không kém gì người
ta. Tôi còn nhớ, có lần đọc bài nói chuyện của
ông Hồ với cán bộ CCRÐ đăng trên tờ nội
san "Cải cách Ruộng đất" (tạp chí lưu hành
trong nội bộ), trong đó ông giải thích rất mộc
mạc chủ trương không được dựa vào tổ
chức cũ như sau: "Tổ chức cũ là "tổ
kén", các cô, các chú không được dựa vào...". Lại cũng
cái lối dùng hình ảnh như việc uốn tre đã nói
trên! Năm 1962, khi nói chuyện về Tuyển tập Hồ
Chí Minh với anh Nguyễn Kiến Giang, lúc đó là phó giám
đốc Nhà xuất bản Sự Thật, anh kể rằng:
"Làm tuyển tập đó chúng tôi mệt lắm, phải rà
soát lại cả, bao nhiêu bài nói của ông cụ trong CCRÐ phải
loại bỏ hay thu gọn lại". Tôi hỏi anh có nhớ
bài ông cụ nói "Tổ chức cũ là "tổ kén" không? Anh
trả lời: "Có chứ! Bài đó phải loại bỏ.
Cán bộ đảng viên nông thôn người ta đang oán
giận đùng đùng, đưa vào tuyển tập thế
nào được!". Nếu ông Hồ không tán thành chủ
trương của các cố vấn đối với tổ
chức cũ ở nông thôn thì có ai bắt ông phải nói thế
đâu?
Tôi kể lại những chuyện
đó chỉ để đi đến kết luận
này: ÐCSVN chớ nên đổ lỗi, đổ tội cho
ai cả, mà cần thấy hết cái trách nhiệm lớn
lao của mình trong CCRÐ. Chừng nào ÐCSVN chưa sám hối
được về những tội ác đã gây ra, thì
người dân chớ có hy vọng là Ðảng sẽ sửa
đổi, sẽ đổi mới và sẽ không tái diễn
lại những tội ác trước đây.
Cũng xin mọi người đừng quên: CCRÐ không phải
là thảm hoạ đầu tiên, cũng chẳng phải
là thảm hoạ cuối cùng mà tập đoàn thống trị
cộng sản Việt Nam đã gây ra cho dân tộc ta! Tôi
không kể những thảm hoạ trước CCRÐ, mà chỉ
nói ngay liền sau CCRÐ là vụ án Nhân Văn - Giai Phẩm, vụ
án Xét lại - chống Ðảng, rồi Cải tạo công
thương nghiệp, đánh đổ tư sản ở
miền Bắc, rồi cái nghị quyết số 49/NQ/TVQH
của Thường vụ Quốc hội do Trường
Chinh ký ngày 20.06.1961, nhốt hàng chục vạn người
vô tội ở miền Bắc vào các trại tập trung khủng
khiếp, rồi Tết Mậu Thân, v.v... và v.v... Nếu kể
hết thì ta thấy cả một chuỗi dài tội ác khủng
khiếp đã qua và đang tiếp tục mãi cho đến
tận ngày nay. Cố nhiên, ngày nay người ta dùng thủ
đoạn tinh vi hơn, nhưng bản chất tội ác
vẫn thế.
Tội ác mới gần đây nhất là vụ án Lê Chí
Quang, xử một nhà yêu nước chân thành, một chí sĩ
đáng kính dù chỉ mới ngoài ba mươi tuổi! Cái
"tội" của anh là đã dũng cảm dấn thân vì
nước, đã dám kêu gọi đám cầm quyền hiện
nay hãy cảnh giác kẻo mang tội bán nước cho Bắc
triều, đã dám đứng chân vào "Hội Nhân Dân Chống
Tham Nhũng" những mong trừ được quốc nạn
cho dân tộc. Tập đoàn thống trị cộng sản
Việt Nam đã trắng trợn bày trò xử án để
tống người thanh niên yêu nước vào tù, người
thanh niên đã từng tuyên bố đanh thép chí hướng
của anh trong bài tiểu luận nổi tiếng "Hãy Cảnh
Giác Với Bắc Triều": "Tôi viết bài này khi đang bị
kìm kẹp trong vòng nghiệt ngã của các lực lượng
bảo thủ và tay sai cho Bắc Triều. Biết rằng,
bài viết này không làm cho hào quang lấp lánh trên đầu
tôi mà trái lại, càng đẩy tôi sâu thêm vào vòng nguy hiểm.
Ngay như đối với một công thần của cách
mạng, mà họ còn ngang nhiên tuyên bố xanh rờn: "…Sẵn
sàng hy sinh Hoàng Minh Chính để bảo vệ chế độ".
Huống chi tôi chỉ là con tốt đen dễ dàng bị
biến thành vật tế thần cho bàn thờ Bắc Triều.
Dẫu sao trước hiểm hoạ khôn lường của
tồn vong đất nước, tôi đâu dám nề hà xả
thân, bởi tôi tâm niệm câu nói của Hàn Phi Tử:
"Nước mất, mà không biết là bất tri. Biết
mà không lo liệu, là bất trung. Lo liệu, mà không liều
chết là bất dũng". Chỉ mong sao tấc lòng nhỏ
mọn này, được lương tri dân tộc trong và
ngoài nước soi thấu, và hết lòng, hết sức chỉ
giáo" (01.10.2001).
Rất mong rằng trong dịp
nhớ lại thảm hoạ CCRÐ, "lương tri dân tộc
trong và ngoài nước", nhất là lương tri giới
trẻ nhận thức rõ rằng chế độ độc
tài đảng trị mà còn thì những thảm hoạ
tương tự vẫn sẽ còn tiếp tục, vì tập
đoàn thống trị cộng sản không tôn trọng con
người, không tôn trọng sinh mạng và quyền tự
do của con người, không tôn trọng luật pháp mà chỉ
coi trọng quyền lực của họ là tối thượng
mà thôi. Nhắc lại thảm hoạ CCRÐ, chúng tôi rất
mong mọi người, nhất là giới trẻ noi
gương Lê Chí Quang, thêm quyết tâm tranh đấu sớm
xoá bỏ chế độ độc tài nhằm chuyển
hoá đất nước ta thành một xã hội dân chủ
đích thực, tạo điều kiện cho sự phát
triển và phồn vinh của Tổ quốc chúng ta.
15.12.2002
Nguyễn Minh Cần